Bằng sự nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ công chức, viên chức, hệ thống KBNN đã không ngừng được kiện toàn, từ tổ chức bộ máy đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng cơ sở vật chất và từng bước hiện đại hoá công nghệ hoạt động KBNN, phục vụ ngày càng có hiệu quả công tác quản lý kinh tế, tài chính và ngân sách quốc gia…
Trong chặng đường 30 năm kể từ khi tái thành lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tài chính, cấp ủy, chính quyền các cấp, sự phối hợp chặt chẽ của các ban, ngành ở trung ương và địa phương, bằng sự nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ công chức, viên chức, hệ thống KBNN đã không ngừng được kiện toàn, từ tổ chức bộ máy đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng cơ sở vật chất và từng bước hiện đại hoá công nghệ hoạt động KBNN, phục vụ ngày càng có hiệu quả công tác quản lý kinh tế, tài chính và ngân sách quốc gia. Những đóng góp to lớn của KBNN đã góp phần đắc lực để Đảng, Nhà nước chỉ đạo công cuộc đổi mới cơ chế quản lý tài chính và điều hành ngân sách nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội trên cả nước. Điều này được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, KBNN không ngừng hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ
Trong 30 năm qua, hệ thống KBNN đã luôn nỗ lực, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, khẳng định vai trò, vị trí quan trọng trong hệ thống quản lý tài chính công; từ đó, được Chính phủ và các cấp lãnh đạo tin tưởng giao phó thêm những trọng trách mới qua các thời kỳ.
Khi mới được thành lập, nhiệm vụ chủ yếu của KBNN là quản lý quỹ NSNN và tiền gửi của các đơn vị dự toán; tổ chức huy động và quản lý các nguồn vốn vay dân và trả nợ dân; tổ chức quản lý, hạch toán kế toán NSNN. Cùng với sự đổi mới và cải cách nền kinh tế, Luật NSNN năm 1996 ra đời và có hiệu lực từ năm ngân sách 1997, dẫn đến sự phát triển mang tính bước ngoặt về chất đối với chức năng, nhiệm vụ quản lý quỹ NSNN của hệ thống KBNN. Đến năm 2000, KBNN tiếp tục được giao thêm nhiệm vụ quản lý cấp phát và thanh toán toàn bộ nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản; từ đó, KBNN thống nhất thực hiện quản lý, kiểm soát các khoản chi NSNN (bao gồm chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển). Từ năm 2009, để tạo cơ sở vững chắc cho các hoạt động cải cách KBNN theo Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020, KBNN được giao thêm 02 chức năng mới là Tổng kế toán nhà nước và quản lý ngân quỹ nhà nước. Bắt đầu từ giai đoạn này, hoạt động của KBNN bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ cải cách và hiện đại hóa hệ thống.
Thứ hai, hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý quỹ NSNN, quản lý ngân quỹ và huy động vốn, tổng kế toán nhà nước
Nhờ công tác huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển, nhiều công trình đã hoàn thành, đưa vào khai thác, sử dụng góp phần an sinh xã hội, phát triển kinh tế-xã hội địa phương. Trường Tiều học Hòa Khánh (Đồng Tháp) là một công trình được đầu tư xây dựng từ nguồn vốn NSNN.
Về thu NSNN: Những năm 90, công tác tổ chức thu NSNN được thực hiện tại KBNN và các điểm thu cố định, lưu động. Mặc dù đã tập trung kịp thời, an toàn các nguồn thu của NSNN, song quy trình thu được thực hiện thủ công qua chứng từ giấy, tốn kém chi phí thời gian, nhân lực. Nhằm tạo thuận lợi cho người nộp thuế và cải thiện hiệu suất công việc, công nghệ thông tin được từng bước ứng dụng vào công tác thu NSNN. Qua việc triển khai thành công dự án Hiện đại hóa thu và phối hợp thu NSNN giữa các cơ quan trong ngành tài chính với ngân hàng thương mại (NHTM), đến nay, quy trình, thủ tục thu NSNN đã được đơn giản hóa, rút gọn; phương thức thu nộp được đa dạng với nhiều loại hình thanh toán khác nhau (qua NHTM, internet banking, ATM, thiết bị chấp nhận thẻ,...). Từ đó, người nộp thuế có thể thực hiện nghĩa vụ nộp NSNN tại bất kỳ địa điểm, thời gian nào (24/7); tốc độ thực hiện giao dịch cũng như trao đổi thông tin thu được cải thiện đáng kể (thời gian thực hiện giao dịch thu NSNN còn dưới 05 phút/giao dịch, tốc độ luân chuyển thông tin thu giữa KBNN, cơ quan thuế, hải quan và NHTM gần như tức thời), giảm thiểu chi phí tổ chức thu NSNN và góp phần phát triển thanh toán không dùng tiền mặt theo chủ trương của Chính phủ. Đến cuối năm 2019, tỷ trọng thu NSNN bằng tiền mặt chỉ còn khoảng 0,47% tổng thu qua KBNN.
Về chi NSNN: Trước khi Luật NSNN năm 1996 ra đời, các khoản chi NSNN chủ yếu được KBNN thực hiện theo lệnh cấp phát của cơ quan tài chính. Cùng với việc quy định cụ thể các điều kiện chi NSNN và đổi mới cơ chế phân cấp quản lý, lập, chấp hành, quyết toán NSNN tại Luật NSNN năm 1996, nhiệm vụ kiểm soát chi NSNN được giao cho KBNN[1]. Việc KBNN thực hiện kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ các khoản chi tiêu của các đơn vị sử dụng ngân sách đã góp phần đảm bảo các khoản chi NSNN trong phạm vi nguồn lực được phân bổ và theo đúng các mục tiêu ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ, KBNN cũng luôn quan tâm cải cách, hiện đại hóa công tác kiểm soát chi như đơn giản hóa, rút ngắn quy trình, thủ tục, thời gian kiểm soát chi (thời gian kiểm soát đối với chi đầu tư đã được rút ngắn từ 07 ngày xuống còn 03 ngày làm việc); triển khai cơ chế kiểm soát cam kết chi; từng bước chuyển từ kiểm soát trước, thanh toán sau sang thanh toán trước, kiểm soát sau; kiểm soát chi theo rủi ro; triển khai dịch vụ công trực tuyến kiểm soát chi qua Trang thông tin dịch vụ công của KBNN,...; qua đó, đã một mặt tạo thuận lợi cho các đơn vị sử dụng NSNN, mặt khác, kiểm soát chặt chẽ các khoản chi, đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả và góp phần nâng cao kỷ cương, kỷ luật tài chính – ngân sách.
Về huy động vốn: Công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ đã luôn đáp ứng tốt nhu cầu cân đối NSNN, phục vụ cho đầu tư phát triển và góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn trong nước. Cơ chế phát hành được hiện đại hóa theo hướng công khai, minh bạch và hiệu quả; gắn kết chặt chẽ với tái cơ cấu danh mục nợ Chính phủ theo hướng bền vững, an toàn và giảm thiểu rủi ro đảo nợ của NSNN. Phương thức phát hành được hiện đại hóa, chuyển từ bán lẻ sang đấu thầu điện tử. Bên cạnh đó, các sản phẩm trái phiếu Chính phủ cũng được đa dạng hóa về loại hình, kỳ hạn; lãi suất bám sát diễn biến thị trường và có xu hướng giảm dần (mặt bằng lãi suất đã giảm từ mức trung bình khoảng 10%/năm trong giai đoạn 2007-2011 còn 4,51%/năm vào năm 2019; so với khu vực Đông Nam Á, lãi suất phát hành TPCP kỳ hạn 10 năm của Việt Nam thấp thứ 3 và thấp hơn lãi suất của các nước có cùng hệ số tín nhiệm trong khu vực như Indonesia, Philipines,...). Thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, kỳ hạn phát hành trái phiếu Chính phủ từng bước được kéo dài; từ đó, giảm áp lực trả nợ cho NSNN trong ngắn hạn (kỳ hạn còn lại của danh mục nợ trái phiếu Chính phủ năm 2019 là 7,41 năm, tăng 5.57 năm so với năm 2009); dư nợ trái phiếu Chính phủ nằm trong giới hạn mục tiêu (nợ Chính phủ không quá 55%GDP). Lãi suất thị trường trái phiếu Chính phủ từng bước trở thành lãi suất định hướng trên thị trường vốn. Đồng thời, quy mô thị trường trái phiếu Chính phủ phát triển nhanh (gấp 12 lần so với năm 2009); đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 27%/năm – mức tăng cao nhất trong các nền kinh tế mới nổi tại khu vực Đông Á và khu vực ASEAN +3.
Về quản lý ngân quỹ: Trong giai đoạn đầu mới thành lập, công tác quản lý ngân quỹ được thực hiện theo mô hình phân tán, dẫn đến việc đảm bảo nhu cầu chi tiêu của NSNN và các đơn vị giao dịch bị động. Cùng với việc xây dựng và triển khai các hệ thống thanh toán điện tử tập trung, công tác quản lý ngân quỹ cũng được chuyển đổi theo hướng quản lý tập trung, thống nhất trong toàn hệ thống; từ đó, đã đảm bảo được sự chủ động trong việc đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu chi tiêu của ngân sách các cấp. Đặc biệt, từ năm 2019, toàn bộ số dư ngân quỹ nhà nước đã được tập trung về NHNN, hình thành tài khoản kho bạc duy nhất theo thông lệ quốc tế, hỗ trợ NHNN trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Trên cơ sở tập trung các nguồn lực tài chính về tài khoản thanh toán tập trung, các nguồn ngân quỹ nhà nước tạm thời nhàn rỗi đã được sử dụng có hiệu quả: Hỗ trợ cho ngân sách trung ương và ngân sách địa phương để đầu tư cho các công trình trọng điểm, mang lại những hiệu quả xã hội tích cực; sử dụng ngân quỹ nhà nước để tạm ứng cho ngân sách trung ương thay vì phát hành trái phiếu Chính phủ để vừa gắn kết quản lý ngân quỹ với quản lý ngân sách và quản lý nợ, vừa giảm thiểu chi phí vay nợ cho NSNN; gửi tiền có kỳ hạn tại NHTM. Qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý ngân quỹ nhà nước (trong năm 2019, KBNN đã bước đầu nộp vào NSNN 5.000 tỷ đồng nguồn thu từ hoạt động quản lý ngân quỹ nhà nước).
[1]
Hiện nay, chỉ còn một số khoản chi được thực hiện theo hình thức lệnh chi tiền
của cơ quan tài chính theo quy định tại Thông tư số 342/2016/TT-BTC ngày 30/12/2016. Mô hình tài khoản kho bạc duy nhất
Về kế toán và báo cáo: Công tác kế toán NSNN giữ vai trò trung tâm trong việc cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, báo cáo về tình hình tài chính – ngân sách cho Quốc hội, Hội đồng nhân dân và chính quyền các cấp, phục vụ hiệu quả cho công tác quản lý, giám sát và điều hành. Chế độ kế toán NSNN liên tục được hoàn thiện trên cơ sở tiếp thu, chọn lọc các thông lệ tốt trên thế giới và sửa đổi để đáp ứng các yêu cầu nghiệp vụ đặt ra. Với việc xây dựng và triển khai thành công hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc (TABMIS) trên toàn quốc, công tác kế toán được cải cách căn bản theo hướng: chuyển từ mô hình kế toán phân tán sang mô hình tập trung; chuyển từ kế toán trên cơ sở tiền mặt sang kế toán tiền mặt điều chỉnh, mở rộng phạm vi kế toán nhà nước, thống nhất kế toán đồ (COA),.., nâng cao chất lượng thông tin, báo cáo. Các báo cáo tình hình thu, chi, quyết toán NSNN được KBNN lập và cung cấp theo quy định; trong đó, các báo cáo quyết toán NSNN luôn được Quốc hội thông qua với tỷ lệ tán thành cao.
Thực hiện Luật Kế toán năm 2015, KBNN cũng triển khai lập báo cáo tài chính nhà nước đầu tiên cho năm tài chính 2018 để trình Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội vào tháng 01 – 3/2020 và báo cáo trước Quốc hội vào tháng 5/2020. Báo cáo tài chính nhà nước sẽ là một kênh thông tin quan trọng giúp Quốc hội, Chính phủ và chính quyền các cấp có được bức tranh tổng thể về quy mô tài sản khu vực nhà nước; tình hình vay nợ; kết quả hoạt động tài chính,... phục vụ hiệu quả cho công tác quản lý điều hành và tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của nền tài chính nhà nước, phù hợp với các thông lệ và xu thế hội nhập quốc tế.
Thứ ba, hệ thống KBNN luôn tập trung ưu tiên hiện đại hóa công nghệ quản lý để phát triển nhanh và bền vững
Công tác kiện toàn, tinh gọn bộ máy, cải cách hành chính, hiện đại hóa quy trình nghiệp vụ tiếp tục được đẩy mạnh
trong toàn hệ thống KBNN nhằm đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả và nâng cao
chất lượng phục vụ và tạo thuận lợi cho khách hàng khi đến giao dịch.
(Ảnh chụp hoạt động giao dịch tại KBNN Bến Tre).
Những năm đầu tái thành lập, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động nghiệp vụ KBNN còn thiếu thốn. Trên quan điểm tận dụng thế mạnh của công nghệ, KBNN đã luôn ưu tiên, tập trung các nguồn lực để hiện đại hóa công nghệ quản lý, đặc biệt là tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào trong toàn bộ các hoạt động quản lý, quản trị của KBNN. Từ đó, công nghệ thông tin tiên tiến đã từng bước được nghiên cứu, ứng dụng, tăng cường khả năng tương tác, kết nối, trao đổi thông tin giữa KBNN với các bộ, ngành, cơ quan, đơn vị liên quan, nâng cao hiệu quả xử lý công việc. Thành quả nổi bật trong việc hiện đại hóa công nghệ quản lý KBNN 30 năm qua là việc xây dựng và triển khai thành công (TABMIS) trên toàn quốc; qua đó, gắn kết chặt chẽ các Chương trình quản lý thu ngân sách nhà nước
Từ năm 2018, KBNN đã từng bước mở rộng dịch vụ công trực tuyến KBNN qua đó, tạo thuận lợi cho các đơn vị giao dịch với KBNN và nâng cao tính công khai, minh bạch; góp phần hình thành kho bạc điện tử. Đến nay, gần 100% các đơn vị giao dịch tại KBNN cấp tỉnh, KBNN quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh đã tham gia dịch vụ công trực tuyến với KBNN; dự kiến trong năm 2020, KBNN sẽ triển khai tới 100% các đơn vị sử dụng NSNN trên phạm vi toàn quốc (trừ các đơn vị an ninh, quốc phòng). Đây là những bước đầu tiên tạo đà cho việc xây dựng một hệ thống quản lý tài chính công hiệu quả và mang màu sắc của một nền kinh tế hiện đại.
Bên cạnh đó, một trong những thành công đáng ghi nhận của KBNN trong những năm qua là việc nâng cao năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ và sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của KBNN.
KBNN tự hào có đội ngũ cán bộ phát triển không chỉ về số lượng mà đặc biệt còn được hoàn thiện về chất lượng. Toàn hệ thống KBNN có khoảng 14.000 công chức; trong đó, đội ngũ lãnh đạo, quản lý có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ, quản lý nhà nước và lý luận chính trị theo đúng quy định; tỷ trọng công chức, viên chức KBNN có trình độ từ đại học trở lên chiếm khoảng 73%; từ đó, đáp ứng tốt các yêu cầu, nhiệm vụ chính trị đặt ra trong giai đoạn mới.
KBNN cũng là một trong những đơn vị tiên phong đi đầu trong việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, công tác sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy theo đúng tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương và các chỉ thị, nghị quyết của Ban cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ Tài chính.
(Còn tiếp…)
- Kỳ 3: Khát vọng đổi mới, phát triển và hội nhập